Hình thành Chư_hầu_nhà_Chu

Nhà Chu vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân Đế Tân nhà Thương tàn ác mất lòng người, Tây bá Cơ Phát đã tập hợp các chư hầu lật đổ nhà Thương để lập nhà Chu.

Để mở rộng và củng cố nền thống trị, quản lý hiệu quả những vùng đất rộng lớn đã chinh phục, nhà Chu thực hiện chế độ phân phong cho các anh em, công thần, con cháu các vua đời trước. Tại mỗi vùng đất nhất định, nhà Chu giao đất và dân cho họ thành lập những quốc gia có quy mô lớn nhỏ khác nhau.

Đầu thời Chu, có 2 đợt phân phong của Chu Vũ VươngChu Công Đán. Sau khi diệt nhà Thương, Chu Vũ vương nhớ công lao các vua đời trước, ông phong cho con cháu họ làm chư hầu:

Để thưởng công cho các tướng sĩ có công phò trợ diệt Thương, ông phong chư hầu cho các công thần, trong đó các nước lớn là:

Trên danh nghĩa, ba người em Quản Thúc Tiên, Sái Thúc ĐộHoắc Thúc Xử có trách nhiệm giúp đỡ Vũ Canh Lộc Phủ nhưng trên thực tế là để giám sát, vì vậy sử gọi là "Tam giám". Sau khi Chu Vũ Vương mất, Quản Thúc Tiên, Sái Thúc Độ và Hoắc Thúc Xử theo Vũ Canh phản lại nhà Chu; Chu Công Đán dẹp loạn rồi giết Vũ Canh và Quản Thúc Tiên, lưu đày Hoắc Thúc và Sái Thúc. Đất của Vũ Canh và Quản Thúc bị chia làm đôi, phong cho 2 người:

Nước Đường làm loạn, Chu Thành Vương diệt nước Đường, phong cho người em nhỏ là Cơ Ngu làm vua, sau đổi là nước Tấn. Chu Thành Vương còn phong cho Hùng Dịch là con cháu Dục Hùng (dòng dõi Hoàng Đế) làm vua nước Sở.

Theo Tuân Tử, đầu thời Chu đã phân phong cho tất cả 71 nước, trong đó họ hàng vua Chu chiếm 53 nước[4]. Theo Tả Truyện, con cháu đời sau của Tây bá Cơ Xương (cha Chu Vũ Vương) được phong 16 nước là:

  1. Quản (Trịnh châu, Hà Nam)
  2. Sái (Thượng Sái, Hà Nam)
  3. Thành (Văn Thượng, Bắc Sơn Đông)
  4. Hoắc (Huyện Hoắc, Sơn Tây)
  5. Lỗ
  6. Vệ
  7. Mao (3 nước này ở Nghi Dương, Hà Nam)
  8. Đam (thành phố Khai Phong tỉnh Hà Nam)
  9. Cốc (đông nam huyện Vũ Thành, Sơn Đông)
  10. Ung (đông bắc Thẩm Dương, Hà Nam)
  11. Tào (Định Đào, Sơn Đông)
  12. Đằng (huyện Đằng, Sơn Đông)
  13. Tốt
  14. Nguyên
  15. Phong
  16. Hoàn (4 nước này ở tây huyện Kỳ Thị, Sơn Tây)

Bốn nước là các con của Chu Vũ Vương:

  1. Tấn
  2. Hãn
  3. Ứng (3 nước này ở tây huyện Bảo Phong, Hà Nam)
  4. Hàn (tây huyện Nhuế Thành, Sơn Tây)

Năm nước con cháu của Chu Công Đán là:

  1. Phàm (tây nam huyện Huy, Hà Nam)
  2. Mâu (2 nước này ở Kim Hương Cảnh, Sơn Đông)
  3. Tác (Diên Tân, Hà Nam)
  4. Tế (bắc Trịnh Châu)
  5. Hình (Hình Đài, Hà Bắc)

Ngoài ra, còn một số nước khác như Từ, Triệu, Cảnh, Ba, Giang, Hoàng, Tùy, … Sang thời Chu Tuyên Vương, một chư hầu quan trọng khác xuất hiện là nước Trịnh, được phong cho Cơ Hữu là em nhỏ của Chu Tuyên Vương (806 TCN). Đến thời Chu Bình Vương, có thêm một chư hầu quan trọng ở phía tây là nước Tần, người được phong là con cháu của Doanh Phi Tử, con Đại Lạc – một vị quan phục vụ nhà Tây Chu[5].